Mì Soba (そば) là mì làm từ bột kiều mạch, dày gần bằng mì spaghetti và được chế biến thành nhiều món ăn nóng và lạnh khác nhau . Món soba rất phổ biến và dễ dàng có mặt trên toàn quốc. Vì mì soba làm từ 100% kiều mạch có xu hướng giòn nên nhiều nhà hàng thêm một ít bột mì khi chế biến mì. Tùy thuộc vào từng cửa hàng, tỷ lệ bột kiều mạch trong mì soba thường dao động trong khoảng từ 40% đến 100%.
Cũng lưu ý rằng có một số món mì có tên soba (ví dụ: yakisoba, chukasoba hoặc Okinawa Soba) không được làm bằng mì kiều mạch. Tuy nhiên, thường xuyên hơn không, "soba" dùng để chỉ mì kiều mạch.
Món soba cơ bản nhất là mori soba, trong đó mì soba luộc, lạnh được ăn với nước chấm làm từ đậu nành (tsuyu). Nhiều món soba được ăn quanh năm, trong khi những món khác chỉ có theo mùa. Một loại món soba đặc biệt là Toshikoshi Soba, biểu tượng của sự trường thọ, chỉ được ăn vào đêm giao thừa .
Giống như mì ống, mì soba có sẵn ở dạng khô ở siêu thị , nhưng chúng ngon nhất nếu được làm bằng tay từ bột mì và nước. Làm mì soba từ lâu đã là một hoạt động thực hành phổ biến đối với du khách trong nước và quốc tế. Hoạt động này được nhiều làng nghề và công ty du lịch tổ chức.
Món soba phổ biến
Soba có thể được phục vụ nóng hoặc lạnh. Dưới đây là một số loại phổ biến hơn mà khách du lịch sẽ gặp phải. Lưu ý rằng một số món ăn được gọi dưới những tên khác nhau tùy theo khu vực.
Mori/Zaru Soba (lạnh)
Loại soba ướp lạnh cơ bản nhất được phục vụ trên khay với nước chấm ướp lạnh đơn giản (tsuyu) được phục vụ bên cạnh. Nước chấm thường là hỗn hợp nước súp, nước và rượu mirin. Có sự khác biệt lịch sử giữa Zaru và Mori soba. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, một điểm khác biệt lớn giữa hai loại này là zaru soba có rong biển nori ở trên mì soba trong khi mori soba thì không.
Kake Soba (nóng)
Mì soba được phục vụ trong bát nước dùng nóng và trong. Nước dùng được làm từ các thành phần tương tự như nước chấm cho mì soba ướp lạnh, nhưng ở nồng độ thấp hơn.
Kitsune Soba (nóng/lạnh)
Kitsune Soba đi kèm với một miếng aburaage , những miếng đậu phụ chiên giòn mỏng đặt trên mì soba. Khi ở Osaka, nếu bạn muốn ăn soba với một miếng aburaage bên trên, bạn sẽ phải yêu cầu Tanuki Soba.
Tanuki Soba (nóng/lạnh)
Tanuki Soba được phục vụ với sự trợ giúp của tenkasu, những miếng bột tempura chiên giòn còn sót lại . Ở Osaka, loại soba tương tự với tenkasu được gọi là Haikara Soba.
Tempura Soba (nóng/lạnh)
Món soba này đi kèm với một phần tempura ở bên cạnh hoặc bên trên sợi mì. Thường có từ ba đến năm loại tempura khác nhau và nguyên liệu làm món này khác nhau tùy theo từng cửa hàng. Mì được phục vụ trên khay (như trên ảnh) hoặc dưới dạng súp.
Tsukimi Soba (nóng)
Tsukimi có nghĩa đen là "ngắm trăng" và do đó, Tsukimi Soba có một quả trứng sống tượng trưng cho mặt trăng.
Tororo Soba (nóng/lạnh)
Tororo là một loại kem màu trắng, dính, giống như bột nhão được làm từ nagaimo thô (khoai lang) xay nhuyễn. Nó thường được đặt lên trên sợi mì soba hoặc được phục vụ bên cạnh để khách thêm vào (như trên ảnh).
Sansai Soba (nóng)
Sansai Soba được ăn kèm với sansai (rau dại) nấu chín đặt trên cùng trong nước dùng.
Nanban Soba (nóng)
Nanban Soba thường dùng để chỉ nước dùng có thêm tỏi tây vào. Hầu hết, nanban soba cũng có thịt gà hoặc vịt trong nước dùng, và việc bao gồm thịt cũng được phản ánh trên thực đơn, tức là Tori Nanban Soba (gà) hoặc Kamo Nanban Soba (vịt).
Ăn soba ở đâu
Soba có thể dễ dàng tìm thấy trên toàn quốc tại các nhà hàng soba chuyên biệt, nơi thường có mì udon trong thực đơn của họ. Nhưng món soba cũng là món thường thấy trong thực đơn tại các quán ăn xung quanh các điểm du lịch, nhà hàng gia đình hay izakaya . Phần ăn uống giải thích những gì sẽ xảy ra bên trong một nhà hàng ngồi ở Nhật Bản.
Tại một số ga tàu đông đúc, bạn có thể tìm thấy các nhà hàng mì soba đứng phục vụ bữa ăn nhanh giữa các chuyến tàu. Gọi món tại các nhà hàng đứng cũng đơn giản như mua phiếu ăn từ máy bán hàng tự động, đưa cho nhân viên và thưởng thức món mì khi đứng tại quầy.
Các món mì soba đơn giản thường có giá từ 500 yên đến 1000 yên, trong khi các món phức tạp hơn hoặc các suất ăn soba đặc biệt thường có giá từ 1000 yên đến 1500 yên.
Một quán mì soba đứng điển hình ở ga xe lửa
Cách ăn soba
Tùy thuộc vào cách phục vụ soba của bạn, cách ăn khác nhau:
Soba được phục vụ trong súp (thường là súp nóng) được thưởng thức bằng cách dùng đũa đưa mì vào miệng và phát ra âm thanh húp xì xụp . Việc húp mì làm tăng hương vị và giúp làm nguội sợi mì nóng khi chúng đưa vào miệng bạn. Nước dùng được uống trực tiếp từ bát, không cần dùng thìa. Việc để lại một ít súp chưa ăn hết trong bát vào cuối bữa ăn không được coi là thô lỗ.
Đối với mì soba được ăn kèm với nước chấm (thường là nước chấm), trước tiên hãy trộn một ít hành lá và wasabi vào nước chấm. Sau đó, bạn ăn mì với âm thanh húp xì xụp sau khi chấm vào nước sốt.
Nếu soba của bạn được phục vụ với nước chấm, một số nhà hàng soba sẽ cung cấp cho bạn một ít ấm trà (xem ảnh bên phải) vào cuối bữa ăn chứa đầy thứ trông giống như nước nóng đục. Đây là sobayu, nước dùng để nấu mì soba. Sobayu được dùng để đổ vào nước chấm còn lại sau khi bạn ăn xong mì. Đây là cách bạn có thể hoàn thành nước chấm của mình bằng cách uống hỗn hợp này và điều chỉnh lượng sobayu theo ý muốn.
Zaru soba, chén nước chấm ở dưới gia vị
Món soba theo vùng
Trong khi soba có thể dễ dàng được tìm thấy trên khắp Nhật Bản, soba có xu hướng phổ biến hơn ở các vùng nông thôn và đặc biệt là ở những vùng có đất thích hợp để trồng kiều mạch. Soba được sản xuất ở một số vùng nổi tiếng hơn những vùng khác. Ví dụ: Tỉnh Nagano và Tỉnh Yamagata , nổi tiếng với món mì soba.
Wanko Soba
Bản thân việc ăn Wanko Soba đã là một trải nghiệm. Mỗi khẩu phần chứa khoảng một ngụm mì soba và người phục vụ sẽ liên tục đổ thêm mì vào bát trống của bạn cho đến khi bạn cho biết rằng mình đã ăn đủ. Bát đầu tiên được ăn đơn giản để nếm thử hương vị, và có thể thêm lớp phủ từ bát thứ hai. Trung bình nữ giới khoảng 30-40 bát, còn nam giới trung bình khoảng 50-60 bát. Món ăn này phổ biến ở Morioka và vùng lân cận.
Ita Soba
Ita Soba là đặc sản của Tỉnh Yamagata . Sợi mì được cắt có chiều rộng lớn hơn một chút so với mì soba thông thường, gợi nhớ đến mì soba được làm ở vùng nông thôn. Ita Soba được phục vụ trên những tấm ván lớn (ita). Khi sử dụng bột mì soba chưa đánh bóng, kết cấu và mùi kiều mạch sẽ đậm hơn.
Soba trà xanh (Matcha Soba)
Uji là một thành phố phía nam Kyoto nổi tiếng về trà. Green Tea Soba là bột kiều mạch trộn với bột trà xanh , tạo ra sợi mì soba xanh có hương vị trà xanh. Nó được ăn như mì soba bình thường và có cả loại nóng và lạnh.
mì soba nishin
Phổ biến ở Kyoto , Nishin Soba được đặt theo tên của cá trích Thái Bình Dương (nishin), được đặt lên trên sợi mì trong nước dùng nóng. Cá được chế biến bằng cách phơi khô rồi om trong nước sốt ngọt.
Izumo soba
Ở Izumo , vỏ hạt kiều mạch được sử dụng để làm bột kiều mạch. Kết quả là mì soba có màu sẫm hơn và có mùi kiều mạch nồng hơn so với mì soba thông thường. Izumo soba thường được phục vụ trong bát ba tầng cùng với nhiều loại đồ ăn kèm. Người ta ăn bằng cách trước tiên thêm một số lớp trên và nước chấm vào lớp đầu tiên, sau đó đổ phần còn sót lại sang lớp tiếp theo và thêm nhiều lớp trên cùng và nước chấm tươi, v.v.
Okinawa soba
Mặc dù được gọi là soba nhưng Okinawa Soba không được làm bằng bột kiều mạch mà bằng bột mì. Kết cấu của chúng giống như sự kết hợp giữa mì ramen và mì udon . Okinawa Soba thường được phục vụ trong nước dùng thịt lợn nóng với những lát thịt lợn ninh, hành lá và gừng ngâm.
https://www.japan-guide.com/
0 / 5 (0Bình chọn)
Bình luận
Gửi bình luận
Bình luận
Đăng nhập
Thông tin người gửi
Để gửi bình luận bạn vui lòng cung cấp thêm thông tin liên hệ